Bối cảnh sống: Nhật Bản từ 1949 - nay
Phong cách sáng tác: Truyện, tiểu thuyết. Ảnh hưởng bởi văn hoá phương Tây, nhạc Jazz
Số lượng tác phẩn: ~ 25
Murakami Haruki (村上 春樹 (Thôn Thượng Xuân Thụ) sinh ngày 12 tháng 1 năm 1949) là một trong những tiểu thuyết gia, dịch giả văn học người Nhật Bản được biết đến nhiều nhất hiện nay cả trong lẫn ngoài nước Nhật. Từ thời điểm nhận giải thưởng Nhà văn mới Gunzo năm 1979 đến nay, hơn một phần tư thế kỷ hoạt động và viết lách, tác phẩm của ông đã được dịch ra khoảng 50 thứ tiếng trên thế giới[2], đồng thời trong nước ông là người luôn tồn tại ở tiền cảnh sân khấu văn học Nhật Bản. Murakami đã trở thành hiện tượng trong văn học Nhật Bản đương đại với những mĩ danh "nhà văn được yêu thích", "nhà văn bán chạy nhất", "nhà văn của giới trẻ".[3]
TIỂU SỬ
Murakami sinh ngày 12 tháng 1 năm 1949 tại Kyoto, nhưng lớn lên tại thành phố Nishinomiya và thành phố Ashiya ở tỉnh Hyogo. Ông nội của ông là một nhà sư[4]; ông ngoại của ông là một thương gia ở Osaka. Bố và mẹ ông đều là giáo viên môn Văn học Nhật Bản[5].
Từ nhỏ, Murakami đã chịu ảnh hưởng lớn của văn hóa phương Tây, đặc biệt là âm nhạc và văn học. Ông lớn lên cùng với hàng loạt tác phẩm của các nhà văn Mỹ như Kurt Vonnegut và Richard Brautigan, và sự ảnh hưởng của phương Tây chính là đặc điểm giúp mọi người phân biệt ông với những nhà văn Nhật khác.[6] Văn học Nhật thường chú trọng đến vẻ đẹp ngôn từ, do đó có thể khiến cho khả năng diễn đạt bị giới hạn và trở nên cứng nhắc, trong khi phong cách của Murakami tương đối thoáng đạt và uyển chuyển.
Murakami học về nghệ thuật sân khấu tại Đại học Waseda, Tokyo. Ở đó, ông đã gặp được Yoko, người sau này là vợ ông. Ban đầu ông làm việc trong một cửa hàng băng đĩa, nơi mà một trong những nhân vật chính của ông trong tác phẩm Rừng Na Uy, Watanabe Toru, đã làm việc. Một thời gian ngắn trước khi hoàn thành việc học, Murakami mở một tiệm cà phê chơi nhạc jazz có tên "Peter Cat" tại Kokubunji, Tokyo[7], ông quản lý nó từ năm 1974 đến 1982. Nhiều tiểu thuyết của ông lấy bối cảnh âm nhạc và nhan đề đề cũng nói đến một bản nhạc nào đó, gồm có Dance, Dance, Dance (của ban nhạc The Steve Miller), Rừng Na Uy của The Beatles)' và Phía nam biên giới, phía tây mặt trời (ghép từ nhan đề một bài hát South of the Border và mượn ý lại của một bài hát khác East of the Sun).
Murakami viết tác phẩm đầu tay của ông khi ông 29 tuổi. Ông nói rằng ông đột ngột nảy ra ý tưởng viết bộ tiểu thuyết đầu tay của mình (Lắng nghe gió hát, 1979) khi đang xem một trận bóng chày. Vào năm 1978, Murakami đang ngồi xem trận đấu bóng chày giữa hai đôi Yakult Swallows và Hiroshima Carp ở Sân vận động Jingu thì cầu thủ người Mỹ Dave Hilton lên đánh. Theo như những lời đồn đoán thì khi Hilton đánh được trái thứ hai, Murakami bỗng nhận ra mình có khả năng sẽ viết được một câu chuyện.[8] Ông về nhà và bắt đầu viết truyện ngay tối hôm đó. Murakami viết tác phẩm này trong khoảng vài tháng do ban ngày ông phải làm việc tại quán bar (dẫn đến những câu văn rời rạc, thất thường trong những chương ngắn). Sau khi hoàn thành, ông gửi cuốn tiểu thuyết đến một cuộc thi văn học duy nhất chấp nhận tác phẩm ngắn cũng như vậy, và giành được giải nhất. Thậm chí trong tác phẩm đầu tay này, rất nhiều yếu tố căn bản tạo nên những tác phẩm sau này của Murakami cũng đã thành hình: phong cách phương Tây, kiểu hài hước thâm thúy, và nỗi nhớ quê hương sâu sắc.
Thành công ban đầu của cuốn Lắng nghe gió hát khuyến khích ông tiếp tục theo đuổi sự nghiệp cầm bút. Một năm sau đó, ông xuất bản cuốn Pinball, 1973, phần tiếp theo của cuốn đầu. Vào năm ông xuất bản Cuộc săn cừu hoang, một thành công nữa về mặt phê bình, sử dụng lại những yếu tố không tưởng và một cốt truyện mang tính kết thúc. Lắng nghe gió hát, Pinball, 1973, và Săn cừu hoang tạo thành "Bộ ba Chuột" (phần tiếp theo của bộ truyện, Dance, Dance, Dance, sau đó cũng được viết nhưng không được xem là một phần của loạt truyện này), trung tâm là người dẫn chuyện vô danh và anh bạn tên là "Chuột". Tuy nhiên, hai tiểu thuyết đầu không được xuất bản ra nước ngoài bằng tiếng Anh, mà chỉ có bản tiếng Anh dành cho sinh viên tiếng Anh. Theo Murakami (Publishers Weekly, 1991), ông cho rằng hai tiểu thuyết đầu tay của ông là "yếu", và không định dịch chúng sang tiếng Anh. Săn cừu hoang là "cuốn đầu tiên tôi cảm nhận một sự xúc động, một niềm vui khi kể câu chuyện. Khi bạn đọc một câu chuyện hay, bạn cứ ngấu nghiến đọc. Khi tôi viết một câu chuyện hay, tôi viết ngấu nghiến".
Vào năm 1985 ông viết cuốn Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới, một câu chuyện tưởng tượng mơ mộng dựa vào những yếu tố huyền ảo, đưa tác phẩm của ông lên một tầm cao mới.
Murakami tạo được một sự đột phá mạnh mẽ và sự thừa nhận tại Nhật vào năm 1987 với tác phẩm Rừng Na Uy, một câu chuyện viết về thời quá khứ đầy mất mát của nhân vật chính Watanabe Toru vào thập niên 60. Tác phẩm đã bán được hàng triệu bản trong giới trẻ Nhật, khiến Murakami trở thành một dạng "siêu sao" tại Nhật Bản (trong sự bất ngờ của ông). Cuốn sách được in thành hai tập, bán chung với nhau, khiến cho số lượng sách bán ra tăng gấp đôi so với thực tế, trở thành cuốn sách bán chạy nhất (bestseller) với hàng triệu bản. Một cuốn có bìa xanh lá, còn cuốn kia màu đỏ. Vào năm 1986, Murakami rời Nhật Bản, đi du lịch qua các nước Châu Âu, và sau đó sống một thời gian ở Hoa Kỳ.
Murakami từng là giảng viên văn tại Đại học Princeton ở Princeton, New Jersey, và tại Đại học Tufts ở Medford, Massachusetts.[9]. Trong thời gian này ông viết Nhảy, Nhảy, Nhảy và Phía nam biên giới, Phía tây mặt trời.
Vào năm 1994/1995 ông xuất bản Biên niên ký chim vặn dây cót. Tiểu thuyết này hợp nhất khuynh hướng hiện thực và tưởng tượng, và chứa đựng cả yếu tố bạo lực. Nó cũng được xã hội chú ý rộng rãi hơn các tác phẩm trước đây, do nó liên quan đến đề tài nhạy cảm về tội ác chiến tranh ở Mãn Châu (Mãn Châu Quốc). Biên niên ký chim vặn dây cót giúp ông đoạt Giải Yomiuri, người trao giải cho ông là một trong những người phê bình ông gay gắt nhất, Oe Kenzaburo, người đã đoạt giải Nobel Văn học năm 1994.[10]
Những chấn thương tâm lý trở thành chủ đề chính trong tác phẩm của Murakami giai đoạn này, vấn đề khi đó vẫn được xem là riêng tư. Trong khi ông đang hoàn thành cuốn Biên niên ký chim vặn dây cót, thì Nhật Bản rung động trong vụ động đất ở Kobe và Vụ tấn công bằng khí ga của Aum Shinrikyo, ông đã trở về Nhật Bản sau khi vụ đó diễn ra. Ông đề cập đến những sự kiện này trong tác phẩm hiện thực đầu tiên của ông, Đường xe điện ngầm, và tập hợp những câu truyện ngắn Sau cơn động đất. Đường xe điện ngầm phần lớn là những cuộc phỏng vấn các nạn nhân trong vụ tấn công bằng khí ga ở hệ thống tàu điện ngầm Tokyo. Dù thủ phạm và sự kiện đứng đằng sau vụ tấn công không phải là chủ đề chính mà cuốn sách nói tới, nhưng bức tranh xã hội Nhật Bản mà Murakami vẽ nên khiến cho người đọc sửng sốt.
Bản dịch tiếng Anh các truyện ngắn của ông viết trong khoảng năm 1983 đến 1990 tập hợp trong The Elephant Vanishes (Con voi biến mất). Ông cũng dịch nhiều tác phẩm của F. Scott Fitzgerald, Raymond Carver, Truman Capote, John Irving, và Paul Theroux, v.v. sang tiếng Nhật.
Vào năm 2006, Murakami trở thành nhân vật thứ sáu nhận Giải Franz Kafka của Cộng hòa Séc cho tác phẩm Kafka bên bờ biển.[cần dẫn nguồn] Murakami nói với phóng viên, "Theo một cách nào đó, đọc những tác phẩm của Franz Kafka là một sự khởi đầu cho nghiệp văn của tôi". Hai người nhận giải Kafka trước Murakami vào năm 2004 và 2005 đều đã đoạt giải Nobel Văn học. Murakami cũng đã được đánh giá là ứng cử viên cho giải Nobel.
Vào tháng 9 năm 2007, ông nhận bằng tiến sĩ danh dự của Đại học Liège[11]. Năm 2009 ông đoạt Giải Jerusalem.
Những tiểu thuyết của Murakami, thường bị những tổ chức văn học Nhật Bản chỉ trích là văn học "bình dân", thường hài hước và mang tính siêu thực, cùng một lúc phản ánh sự ham muốn, nỗi cô đơn, và khao khát tình yêu khiến độc giả khắp Phương Tây cũng như Đông Á phải xúc động. Hơn nữa, những tác phẩm của Murakami cũng bị chỉ trích do cách mô tả của ông về sự ám ảnh tư bản của Nhật Bản. Thông qua tác phẩm của mình, ông có thể nắm bắt được cảm giác trống rỗng về linh hồn của những con người cùng thế hệ với ông và khám phá ra những tác động tiêu cực của tâm lý hướng về công việc của Nhật Bản. Tác phẩm của ông phê bình sự suy giảm trong giá trị người phụ nữ và sự mất mát mối quan tâm giữa con người với nhau trong xã hội tư bản nước Nhật.
Vào năm 2006, Murakami trở thành người thứ sáu giành Giải thưởng Franz Kafka, giải mà trước đó đã trao cho người đạt Giải Nobel Văn học Harold Pinter và Elfriede Jelinek. Chính Murakami cũng đã được xem là một tiềm năng cho giải Nobel. Nếu được nhận giải, ông sẽ trở thành người Nhật thứ ba, sau Kawabata Yasunari và Oe Kenzaburo.
Murakami được trao Giải thưởng Kiriyama dành cho Tiểu thuyết năm 2007 với tập truyện ngắn Cây liễu mù, người đàn bà ngủ nhưng, theo Trang web chính thức của Kiriyama, Murakami "đã từ chối nhận giải vì lý do cá nhân".
Murakami bị chúc mừng nhầm vì tưởng đã đoạt Giải Nobel Văn học năm 2006 trên trang chủ của thư viện phố ở quê nhà Ashiya của ông, nhưng đó là lỗi ở thư viện[14].
CÁC TÁC PHẨM
Lắng nghe gió hát (Tên gốc: Kaze no uta wo kike), dịch giả: Nguyễn Hồng Anh (Nhã Nam)
Rừng Na Uy (Tên gốc: Noruwei no mori), dịch giả: Trịnh Lữ (Nhã Nam, 2006)
Biên niên ký chim vặn dây cót (Tên gốc: Nejimaki-dori kuronikuru), dịch giả: Trần Tiễn Cao Đăng, (Nhã Nam,2006)
Phía Nam biên giới, Phía Tây mặt trời (Tên gốc: Kokkyō no minami, taiyō no nishi), dịch giả: Cao Việt Dũng (Nhã Nam,2007)
Kafka bên bờ biển, (Tên gốc: Umibe no Kafuka), dịch giả: Dương Tường (Nhã Nam, 2007)
Sau nửa đêm (Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 2007)
Truyện ngắn Murakami Haruki, nghiên cứu và phê bình, dịch giả: Hoàng Long, (Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2006)
Người tình Sputnik, dịch giả: Ngân Xuyên, (Nhã Nam, 2008)
Ngầm (Tên gốc: Andāguraundo), dịch giả: Trần Đĩnh (Nhã Nam, 2009)
Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới (tên gốc: Sekai no Owari to Hādoboirudo Wandārando) dịch giả: Lê Quang (Nhã Nam, 2010)
Tôi nói gì khi nói về chạy bộ (Tên gốc: Hashiru koto ni tsuite kataru toki ni boku no kataru koto), dịch giả: Thiên Nga (Nhã Nam, 2011)
Nhảy Nhảy Nhảy (Tên gốc: Dansu Dansu Dansu), dịch giả: Trần Vân Anh (Nhã Nam, 2011)
1Q84 (trọn bộ 3 tập) (Tên gốc: Ichi-Kyū-Hachi-Yon), dịch giả: Lục Hương (Nhã Nam, 2012)
Tazaki Tsukuru không màu và những năm tháng hành hương, (Tên gốc: Shikisai wo motanai Tazaki Tsukuru to, kare no junrei no toshi), dịch giả: Uyên Thiểm (Nhã Nam, 2014)
Những người đàn ông không có đàn bà (Tên gốc: Onna No Inai Otokotachi) dịch giả: Trương Thuỳ Lan (Nhã Nam, 2018)
Giết chỉ huy đội kỵ sĩ - 2 tập (Tên gốc: Kishidanchō-goroshi)) dịch giả: Mộc Miên (Nhã Nam, 2020)